Dẫn nhập: Việc chuyển nhầm tiền xảy ra không hiếm trong cuộc sống –
Lưu ý, là ở đây Chúng ta đang nói về việc chuyển nhầm là nhầm lẫn thực sự, chứ
không phải chiêu trò gì cả. Tuy nhiên, Vụ việc chuyển nhầm tiền tại Đà Nẵng là
khá hi hữu, vì có sự xuất hiện của một Chủ thể rất quan trọng, đã trực tiếp
chiếm giữ một phần số tiền bị chuyển nhầm. Câu chuyện đại khái như sau: Bà A
chuyển nhầm vào tài khoản của Bà B số tiền 3 tỷ đồng. Khi trong tài khoản của
Bà B báo có 3 tỷ đồng đó, thì Ngân hàng C đã khấu trừ/thu hồi nợ 1 tỷ đồng, do
Bà B đang có nợ chưa trả cho Ngân hàng. Khi Bà A liên hệ để đòi lại tiền chuyển
nhầm, thì Bà B đã hoàn trả 2 tỷ. Còn 1 tỷ Bà B chưa thể hoàn trả vì đã bị Ngân
hàng thu hồi nợ như đã nêu. Ngân hàng thì chưa chịu trả lại cho Bà A, với lý
luận trước đó Bà B đã vay nợ Ngân hàng, và có thỏa thuận cứ trong tài khoản Bà
B có tiền, Ngân hàng được quyền tự động khấu trừ/thu hồi khi đến hạn. Đến thời
điểm hiện tại, Bà A đã tố giác Bà B có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản ra
Cơ quan có thẩm quyền, để yêu cầu xử lý theo đúng quy dịnh của pháp luật (Hết
dẫn nhập).
Vụ việc vừa nêu, trở nên “hấp dẫn và
lý thú” về mặt pháp lý, là bởi có thêm tình tiết Ngân hàng khấu trừ/thu hồi nợ
vì thấy trong tài khoản của Bà B có tiền. Giả định nếu không có chi tiết đó,
thì câu chuyện không có gì đáng bàn: Bà A chuyển nhầm tiền, Bà B trở thành
Người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật, do đó có nghĩa vụ phải trả lại tiền
cho Bà A, tất nhiên ở đây Người có lỗi là Bà A, vì sự cẩu thả của mình đã gây
ra phiền toái cho Bà B, nhưng đó không phải là lý do để Bà B được xác lập quyền
sở hữu đối với khoản tiền này, nên dù phiền toái hay là gì, Bà B cũng phải làm
thủ tục chuyển hoàn lại tiền cho Bà A.
Trong vụ việc trên, Bà B chưa thể
chuyển hoàn 01 tỷ còn lại, bởi khoản tiền này đã bị Ngân hàng khấu trừ/thu hồi
nợ như đã nói, chính vì thế Bà A mới tố giác Bà B về hành vi chiếm giữ trái
phép tài sản. Tuy nhiên, có thể nói rằng, việc cáo buộc Bà B với hành vi chiếm
giữ trái phép tài sản là không có cơ sở luận chứng và căn cứ pháp lý. Giả định
nếu lúc đầu tiền vẫn nằm trong tài khoản của mình nhưng Bà B không chịu hoàn
trả hoặc Bà B tự định đoạt số tiền này bằng cách rút ra hay chuyển đi nhằm thực
hiện giao dịch nào đó – Thì hành vi của Bà B sẽ là chiếm giữ hoặc sử dụng trái
phép tài sản.
Trong khi đó, việc Bà A chuyển nhầm
tiền thì Bà B hoàn toàn bị động, tiếp theo đó việc Ngân hàng tự động khấu
trừ/thu hồi nợ thì Bà B cũng hoàn toàn bị động nữa. Bà B hoàn toàn không có một
lỗi lầm hay vi phạm pháp luật nào trong những sự bị động vừa nêu. Trách nhiệm
duy nhất của Bà B là thông báo cho Ngân hàng biết đó không phải tiền của Bà B,
mà là do Bà A chuyển nhầm, thì Bà B đã thông báo.
Ngân hàng mặc dù đã được Bà B thông
báo, nhưng vẫn không chịu hoàn trả cho Bà A, điều này không có lỗi của Bà B, vì
điều đó nằm ngoài khả năng của Bà B.
Đúng là khi Bà A chuyển nhầm tiền
cho Bà B, thì Người đầu tiên “nhận” được tiền là Bà B, nhưng cái nhận này không
phải là cái nhận thực tế mà chỉ là một thông báo có dư tài khoản từ Ngân hàng,
tức là Bà B chưa được cầm, sờ, nắn khoản tiền này (Tức chưa có sự chiếm giữ
mang tính vật lý – 01 trong 02 phương thức thể hiện sự chiếm hữu tài sản), Bà
cũng chưa hề được và chưa có khả năng chi phối, quản lý, kiểm soát đối với
khoản tiền này (Phương thức còn lại của sự thể hiện chiếm hữu tài sản), thì đã
bị Ngân hàng khấu trừ/thu hồi nợ, ngoài ý chí của Bà B. Do đó, không thể cáo
buộc Bà B có hành vi chiếm giữ trái phép tài sản, vì Bà B chưa có hành vi, thậm
chí là chưa được đặt vào trạng thái đã được chiếm hữu tài sản, như vừa nêu.
Trong vụ việc này, Chúng ta thấy
rằng, ban đầu Ngân hàng là Chủ thể ngay tình, tức họ không biết và không buộc
phải biết tiền trong tài khoản của Bà B là do chuyển nhầm mà có, nên khi thấy
có tiền trong tài khoản, Họ sẽ tự động khấu trừ/thu hồi nợ của Bà B như đã thỏa
thuận trước đây. Tuy nhiên, khi Ngân hàng đã biết rằng, tiền trong tài khoản
của Bà B là do được chuyển nhầm mà có, tức đó là sự chiếm hữu không có căn cứ
pháp luật, nên Bà B không có quyền sở hữu với số tiền này, đồng nghĩa Ngân hàng
không thể khấu trừ/thu hồi nợ. Do đó, Ngân hàng buộc phải tiến hành thủ tục để
hoàn trả lại tiền cho Bà A.
Tất nhiên, trong một chừng mực nào
đó, thì Ngân hàng cũng gọi là có “cái lý” của Họ, với lập luận đại loại: Ai
biết nhầm thật, hay nhầm giả, biết đầu không muốn trả nợ, nên nại ra vậy thì
sao?! Đến lúc này, vai trò của Cơ quan có thẩm quyền cực kỳ quan trọng, chỉ cần
xác minh giữa Bà A và Bà B không có bất kỳ giao dịch nào làm phát sinh nghĩa vụ
chuyển tiền giữa Bà A cho Bà B, tức việc chuyển nhầm là nhầm lẫn thật sự, thì
lúc này Ngân hàng phải trả lại tiền cho Bà A.
Lưu ý thêm với Bà con rằng: Trong các tranh chấp pháp lý, việc xác định Người có nghĩa
vụ chứng minh là rất quan trọng. Như trong Vụ việc này, khi cả Bà A và Bà B đều
thừa nhận là chuyển nhầm, cho nên Ngân hàng muốn không trả lại tiền cho Bà A,
thì Ngân hàng là Người có nghĩa vụ chứng minh việc chuyển tiền là không hề
nhầm, tức Ngân hàng phải chứng minh tiền đó là tiền hợp pháp của Bà B, thì Ngân
hàng mới có quyền khấu trừ. Mà như vậy, thì Ngân hàng phải đưa ra được chứng
cứ, chứng minh rằng giữa Bà A và Bà B có tồn tại giao dịch, làm phát sinh nghĩa
vụ chuyển tiền của Bà A cho Bà B. Nếu không có thêm tình tiết gì mới, việc Ngân
hàng đưa ra được bằng chứng là bất khả thi. Theo đó, việc xác định Ngân hàng có
nghĩa vụ chứng minh, sẽ khiến cho vụ việc nhanh chóng có lối ra hơn.
Có thể nói rằng, vụ việc trên không
có quá nhiều tình tiết phức tạp, nhưng để giải quyết được nó cũng khá nhiêu
khê, nhất là khi các Bên không thể tự giải quyết được, dẫn đến tranh chấp: Một
Vụ kiện dân sự mất khá nhiều thời gian, còn một Vụ án hình sự là không có cơ sở
nếu như không có tình tiết nào khác, ngoài những tình tiết đã được nêu trong
phần dẫn nhập. Từ đó cho thấy - Mới chỉ là hành vi thiếu cẩn trọng dẫn đến việc
chuyển nhầm tiền, chứng cứ rành rành ra đấy, đã gây ra biết bao hệ lụy phiền
toái, mệt mỏi cho Đương sự; Thì những tranh chấp dạng khác, còn phức tạp và
gian nan đến nhường nào. Vì thế, Bà con ta cần phải hết sực thận trọng khi thực
hiện các hành vi pháp lý, nhằm phòng tránh những rủi ro pháp lý không đáng có.
Viết tại Sài Gòn, ngày 20/07/2024
Luật sư: Đặng Bá Kỹ